Thụy Sĩ lãi gần 35 tỷ USD nhờ tích trữ vàng
Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ (SNB) ghi nhận lợi nhuận quý III đạt 27,93 tỷ franc Thụy Sĩ (khoảng 35 tỷ USD), phần lớn nhờ giá trị vàng dự trữ tăng vọt.
hoặc
Vui lòng nhập thông tin cá nhân
hoặc
Vui lòng nhập thông tin cá nhân
Nhập email của bạn để lấy lại mật khẩu
										Dù cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Trung mang lại thỏa thuận đình chiến thương mại ngắn hạn, làn sóng doanh nghiệp Mỹ di dời sản xuất khỏi Trung Quốc vẫn không giảm, gây ra lo ngại.
Cái bắt tay giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình - hai nhà lãnh đạo quyền lực nhất hành tinh đã mang theo hy vọng về sự hạ nhiệt cho cuộc chiến thương mại đã kéo dài và gây tổn thất nặng nề. Những con số được công bố sau đó dường như cũng củng cố cho sự lạc quan, Mỹ hạ thuế quan giảm từ 57% xuống 47%, Trung Quốc nối lại việc mua nông sản. Bề nổi của tảng băng trông có vẻ yên bình nhưng phía dưới, dòng chảy ngầm mạnh mẽ vẫn đang tiếp tục bào mòn nền tảng của mối quan hệ kinh tế từng được coi là không thể tách rời này. Đó là dòng chảy của vốn đầu tư, của các dây chuyền sản xuất và trên hết là của lòng tin của các doanh nghiệp đang lặng lẽ rời khỏi Trung Quốc.
Thoạt nhìn, việc giảm 10% thuế quan là một tin tốt. Nhưng đối với các CEO doanh nghiệp và các nhà quản lý chuỗi cung ứng, những người phải hoạch định chiến lược cho 5-10 năm tới, con số này không đủ sức nặng để thay đổi quyết định mang tính cấu trúc. Mức thuế 47% vẫn là con số khổng lồ, cao hơn rất nhiều so với các lựa chọn thay thế hấp dẫn như Thái Lan hay Mexico, Malaysia, Ấn Độ.

"Chính sách thuế quan mới nhất sẽ không làm thay đổi phương châm đã được định sẵn của chúng tôi", ông Benjamin Jurken, chuyên gia tư vấn chuỗi cung ứng, phó chủ tịch của Tập đoàn ABC tại Milwaukee, Mỹ khẳng định. Lời nói của ông đại diện cho tâm lý đã ăn sâu vào các phòng họp hội đồng quản trị trên khắp nước Mỹ. Vấn đề không còn đơn thuần là chi phí, cuộc chiến thương mại đã dạy cho các doanh nghiệp bài học đắt giá về sự mong manh của chuỗi cung ứng toàn cầu và sự nguy hiểm của việc bỏ tất cả trứng vào một giỏ. Giờ đây, từ khóa không phải là "chi phí thấp nhất" mà là "rủi ro thấp nhất".
Câu chuyện của Nicole Craft Brands, công ty chuyên về sản phẩm thủ công mỹ nghệ là minh chứng điển hình. Từng phụ thuộc phần lớn vào các nhà máy Trung Quốc, công ty này giờ đây đang ráo riết tìm kiếm các đối tác mới ở khắp nơi trên thế giới, từ Việt Nam, Mexico, Pakistan, Indonesia đến tận Thổ Nhĩ Kỳ. Đối với họ, việc đa dạng hóa không còn là lựa chọn mà là mệnh lệnh sống còn.
Nếu cuộc chiến sản xuất hàng tiêu dùng là trận chiến chiến thuật, thì cuộc đối đầu trên mặt trận công nghệ cao mới thực sự là cuộc chiến chiến lược. Ở đây, những nhượng bộ lại càng trở nên mong manh hơn.
Trung Quốc có thể đã đồng ý tạm dừng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đất hiếm, nhưng họ không hề hủy bỏ hệ thống cấp phép. Đối với những nhà nhập khẩu nam châm đất hiếm của Mỹ, điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mỗi lô hàng đều có thể bị trì hoãn hàng tuần, thậm chí bị từ chối mà không có lý do rõ ràng. Thanh gươm vẫn treo lơ lửng trên đầu họ. Sự bất định này là kẻ thù của kinh doanh. Phản ứng logic duy nhất là tiếp tục đầu tư vào các nguồn cung thay thế, dù cho chi phí có cao hơn.

Tương tự với ngành chip bán dẫn. Việc Trung Quốc có thể xem xét cho phép mua lại một số chip AI của Nvidia là tín hiệu hòa giải, nhưng không ai ảo tưởng rằng đây là sự thay đổi chiến lược. Kế hoạch "5 năm thứ 15" của Bắc Kinh đã nêu rất rõ mục tiêu cuối cùng, tự chủ công nghệ hoàn toàn. Họ cần chip của Nvidia bây giờ để phát triển nền kinh tế AI của mình, nhưng họ cũng đang dốc toàn lực để có thể tự sản xuất những con chip đó trong tương lai. Sự nhượng bộ hôm nay chỉ là bước đi chiến thuật trong ván cờ dài hơi.
Có thể nói, chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi kiến tạo trong tư duy kinh doanh toàn cầu. Cuộc gặp Mỹ - Trung và bản thỏa thuận được đưa ra chỉ xử lý được các triệu chứng, không chữa được căn bệnh trầm kha. Căn bệnh đó chính là sự xói mòn của lòng tin chiến lược.
Trong suốt 30 năm, mô hình kinh doanh toàn cầu được xây dựng trên một giả định cơ bản, thương mại sẽ vượt lên trên chính trị. Các công ty tin rằng họ có thể đầu tư vào Trung Quốc mà không cần lo lắng quá nhiều về những biến động địa chính trị. Cuộc chiến thương mại đã phá tan giả định đó. Nó đã chứng minh rằng chuỗi cung ứng có thể bị vũ khí hóa, các doanh nghiệp có thể trở thành con tin trong cuộc đối đầu giữa các siêu cường.

Vì vậy, cái mà các doanh nghiệp đang làm không chỉ đơn thuần là di dời sản xuất, mà là giảm thiểu rủi ro. Thuế quan chỉ là một phần của phương trình rủi ro. Phần còn lại, cũng là phần quan trọng hơn, bao gồm sự ổn định chính sách, tính minh bạch của pháp luật, nguy cơ bị trả đũa chính trị và áp lực từ chính chính phủ và người tiêu dùng trong nước. Cuộc gặp thượng đỉnh vừa qua không giải quyết được bất kỳ yếu tố nào trong số này.
Trung Quốc đang chuyển đổi từ vị thế công xưởng không thể thay thế của thế giới thành một trong nhiều lựa chọn quan trọng. Chiến lược Trung Quốc +1 (chiến lược kinh doanh nhằm tránh việc đầu tư duy nhất vào Trung Quốc và đa dạng hóa kinh doanh sang các quốc gia khác, hoặc chuyển hướng đầu tư sản xuất tại các nền kinh tế đang phát triển có triển vọng khác như Ấn Độ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc Việt Nam) không còn là lý thuyết nữa, nó đã trở thành thực tế bắt buộc đối với bất kỳ công ty đa quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển trong thế kỷ 21.
Cái bắt tay tại thượng đỉnh có thể đã ngăn chặn sự đổ vỡ hoàn toàn, nhưng nó không thể đảo ngược một xu hướng đã thành hình. Các lực lượng kinh tế và địa chính trị sâu sắc hơn nhiều so với các thỏa thuận tạm thời. Các công ty Mỹ, cũng như các công ty trên toàn thế giới, đã nhận ra rằng kỷ nguyên của sự toàn cầu hóa vô tư đã kết thúc. Giờ đây là kỷ nguyên của sự tính toán chiến lược, của sự đa dạng hóa và của việc chuẩn bị cho tương lai bất định. Dòng vốn có thể không ồ ạt tháo chạy, nhưng nó đang âm thầm và kiên định tìm đến những bến đỗ mới an toàn hơn. Đó là xu hướng mà không cuộc gặp thượng đỉnh nào có thể dễ dàng ngăn cản.